Thursday, January 18, 2018

Người Mẹ

________________

NGUYỄN NGỌC HOÀNG



Tôi bấm nút “Save” để giữ lại dữ kiệm, thở phào. Cuối cùng cũng viết xong bản kế hoạch chi tiết cho công trình thiết kế phần mềm của tôi năm nay, 2018. Ngày mai là thời hạn tôi phải nộp bản kế hoach để duyệt xét. Toàn bộ dự trù 10 tháng, bắt đầu từ tháng Hai đến cuối tháng Mười Một. Phần nhân sự có bốn kỷ sư phát triển phần mềm, kể cả tôi. Hầu hết tuổi trung bình trong công ty là dưới bốn mươi. Dĩ nhiên trừ một số ngoại lệ ở tuổi trên năm mươi, thường là công tác quản lý nhiều hơn là phát triển, thiết kế. Theo thời gian, đến một mức tuổi nào đó, khả năng sáng tạo, tiếp thu cái mới giảm đi, chỉ còn lại kinh nghiệm. Nhưng nếu sự tích lũy của kinh nghiệm không được cập nhật với hiện đại thì đôi lúc cũng không có giá trị tồn tại. Nhất là nền công nghiệp “mạng toàn cầu” hiện nay. Thống kê cho thấy, hơn 60% là người xữ dụng, tiêu dùng hơn là phát triển, sáng tạo nhu liệu và những ứng dụng mới. Thời gian và cuộc sống hằng ngày mà chúng ta phải đương đầu, bàu mòn những cảm ứng của cái mới. Chỉ còn lại là phản ứng của thói quen, cầu toàn và lo sợ mọi rủi ro. Với tôi, điều đáng sợ nhất không phải là tuổi thời gian, mà sự cằn cỗi của tâm hồn già nua của cảm xúc. Thành kiến và cố chấp là kết quả tất yếu của hai điều đáng sợ nầy: “hãy đốt một que diêm, hơn ngồi nguyền rũa trong bóng tối”! Đôi khi nước mắt là những hạt ngọc châu, quý báu hơn chúng ta tưởng. Nước mắt và biển muôn đời vẫn mặn, còn khóc là còn cảm nhận được hạnh phúc đời thường. Tôi yêu con người bình thường chung quanh: người kỷ sư anh công nhân hãng điện toán, chị làm móng tay, chú chạy bàn quán phở... đem từng đồng tiền nhỏ về cho vợ con và chắt mót tiền dành dụm gửi về nuôi em cháu ăn học ở quê nhà. Quê hương trong tôi là con sông chảy êm đềm trước nhà nội; là ngôi trường nhỏ ở đầu làng, ở chợ huyện; là nơi chốn của những hẹn hò tuổi mới lớn; là lớp học đơn sơ thiếu thốn mà tôi đã dạy một thời tuổi trẻ; là những xóm làng xa xăm, ẩn mình trong vài vườn cây ăn trái hay phía bờ bên kia của thửa ruộng trước, sau nhà.


Cũng như bao nhiêu đứa trẻ thời kỳ chiến tranh, tôi được nuôi nấng và dạy dỗ bởi hai người phụ nữ, là mẹ và bà nội. Cha tôi là một quân nhân, rày đây mai đó, cuốn hút theo cuộc chiến, rất ít khi ở nhà với vợ con. Từ phi trường Bình Thủy, Pleiku, Kon-Tum đến tận bờ sông Thạch Hãn ông đều có mặt.  Tuổi thơ tôi không có hình bóng của cha: “dạy con đèn sách mẹ làm phụ thân”. Từ một nữ văn công ca múa Đồng Tháp thời kỳ Việt Minh, bà trở thành một người vợ, người mẹ, buôn bán tảo tần nuôi đàn con sáu đứa và phụng dưỡng cả mẹ chồng. Đôi lúc chạnh lòng, bà hát những bài ca một thời để ru con:
“Về đây khi gió mùa thơm ngát
Ôi lũ chim giang hồ
Bao cánh đang cùng dật dờ trên khắp cố đô
Từng đôi trên đất bắc ríu rít ca.. .
Mờ mờ trong nắng ven trời
Chim reo thương nhớ, chim ngân xa
Hồn còn vương vấn về xưa...“   (Đàn Chim Việt – Văn Cao)

Lúc đó tôi thấy mẹ thật đẹp. Mà bà đẹp thật chớ không phải chỉ tôi thấy. Mũi cao, khuôn mặt sáng, thanh tú và có làn da trắng, mịn màn. Giọng hát bà đầm ấm, thong thả không trau chuốt nhưng tròn trịu lôi cuốn lòng người. Từ hình ảnh của bà, tôi sống và nhìn cuộc đời bằng trái tim nhiều hơn lý trí. Mẹ tôi không hề mắng chửi, đánh đập con cái, bà chỉ im lặng và nước mắt lưng tròng. Vậy mà chúng tôi sợ, rất sợ bà khi phạm lỗi. Tôi còn nhớ mãi đôi mắt và sự im lặng của bà đến mãi bây giờ. Yêu mẹ nhưng chừng như tôi thấy bà xa cách quá. Có lẽ bà ít nói và nếu có nói cũng ngắn ngủi, kiệm lời. Anh em tôi thường đùa, “nếu mẹ tiết kiệm tiền như tiết kiệm lời nói, thì chắc nhà mình giàu biết chừng nào”. Mẹ tôi làm ra tiền nhưng cũng xài ra tiền. Không chỉ cho các con mà còn người chung quanh, nhiều khi chẳng quen biết gì. Một người lạ qua đường gặp nạn, một gia đình cùng quê di tản nhận ra bà, mấy đứa trẻ cùng xóm cha mẹ đi làm ăn xa... bà móc ruột giúp hết, cho hết đến đồng bạc cuối cùng. Nhiều lúc túng quẩn, tiền lương quân nhân của cha tôi trang trải không quá mươi ngày nửa tháng, bà không hề than van, lộ sắc. Vẫn điềm tỉnh nói cười, dù hai ngày qua mẹ tôi chỉ ăn cơm với canh trà, nước mắn. Khác xa với nhà trên của nội, người hầu kẻ hạ, cơm thịt ê chề. Bà nội tôi lại là một người đàn bà khác, hoàn toàn khác với mẹ (sẽ nói đến sau). Cứ vậy mà tôi khôn lớn, ra khỏi trường làng, chợ huyện, trường tỉnh và lên tận Sài-gòn. Suốt đời tôi chưa hề được mẹ ôm vào lòng (như sách giáo khoa,  truyện tiểu thuyết) hay ngọt ngào chăm sóc. Thỉnh thoảng bà chỉ kể tôi nghe quãng đời con gái trong khu 7, vùng quê hương Đồng Tháp. Năm gặp cha tôi, bà bị Bình Xuyên bắt đánh đập, tra khảo tưởng chết vì tình nghi là văn công “gián điệp” của Tây. Kết quả của nhiều chứng bệnh hậu mà bà cưu mang. Sau nầy gặp lại nhiều người trong nhóm đã bắt và đánh đập, bà không oán trách hay hé môi nhắc lại. Hơn nữa mẹ tôi còn giúp và tìm kiếm công ăn việc làm cho họ. Bà không dạy con bằng những bài học, những ngôn từ to lớn mà bằng đời sống, cư xử hằng ngày rất thường tình của bà. Tôi bị ảnh hưởng nặng nề điều này từ mẹ. Một đời tôi chúa ghét những “dao to búa lớn”, những thuật ngữ vay mượn từ “ông Tây bà Đầm” lạ quắt lạ quơ, cứ làm như không nói đến không đem ra trích dẫn thì không nói lên sự hiểu biết, bác học của mình. Tôi học được từ mẹ không chê bai, oán trách những người chung quanh mình, đồng bào mình. “Vì đơn giản họ chính là mình. Tội lỗi hay thói hư tật xấu của họ cũng chính là của mình. Hãy tha thứ và làm tốt chính mình thì tất cả sẽ cùng tốt hơn”, bà thường nói với chúng tôi như vậy. Hình như bà chỉ nói một hai lần trong đời, nhưng đã khắc sâu đậm trong mọi nhận thức của tôi. Mỗi lần tức giận, bị xúc phạm, chê bai hay buồn tủi điều gì là tôi thấy ngay đôi mắt và khuôn mặt lặng im của bà đăm đắm nhìn tôi. Tất cả chợt tan biến, như chẳng hề xảy ra.  

Bà nội tôi là một người đàn bà nghiêm khắc và quyền lực. Là vợ thứ tư của ông Cả, nên trong làng gọi là bà Cả Út. Ruộng vườn mênh mông, luôn có ba bốn người ăn kẻ ở trong nhà, lúc bà mới ngoài hai mươi. Còn nhớ lúc nhỏ tôi rất sợ phải ngủ ở ngôi nhà trên của nội. Vừa rộng, phòng nầy nối phòng kia, bàn thờ giữa nhà, vừa âm u thiếu ánh sáng, tôi rất sợ ma! Mọi người gần như chỉ đi lại, ăn uống và sinh hoạt ở nhà dưới. Thời đó bà nội lại còn có cả ba đứa con trai: bác Hai, ba tôi và chú Sáu đều là sĩ quan của quân đội VNCH. Nhất là bác Hai, con trai lớn của nội, là đại tá trưởng ty an ninh quân đội của tỉnh nhà. Không như mẹ tôi, bà điều khiển, la mắng và quát tháo người chung quanh như một thói quen. Mẹ con tôi được bà cất một căn nhà phía sau vườn, sát cạnh bờ sông. Bà nội và mẹ tôi như mặt trăng và mặt trời. Cái này có là cái kia không. Nhật thực, nguyệt thực hết đời chỉ có đôi ba lần. Điều duy nhất hai người đàn bà có được là ca hát. Bà nội tôi rất mê hát bộ và cải lương. Vài tháng một lần, bà bao cả đoàn hát bộ hoặc cải lương về hát tại đình cho cả làng đến xem. Chỉ những dịp như vậy, con dâu mẹ chồng mới nhích lại gần nhau. Tôi không thích mẹ ca vọng cổ, mặc dầu giọng bà rất dày, hơi dài và rớt câu ngọt ngào. Nhưng mỗi khi như vậy, bà đều tham gia với đoàn hát. Và còn nhớ một lần, cô đào trong đoàn bị đau nặng, mẹ tôi đem về nhà nuôi dưỡng cả tháng trời.

Sau ngày 30 tháng 4, 1975 thì cả tất cả tan nát, sụp đổ. Nhà cửa, ruộng vườn đồ sộ của bên nội đều bị tịch thu. Con cháu không ai dám trở về làng thăm, chăm sóc bà. Sau 16 năm học tập cải tạo, bác Hai tôi là đứa con cuối cùng trở về, là lúc bà nội tôi xuôi tay nhắm mắt. Mẹ tôi nói, bà nội đã chờ đợi để thấy được mặt đứa con trai lớn của mình như một phép lạ. Suốt trong thời gian đó, những người ăn kẻ ở của nội trước kia, đều quyền cao chức trọng. Họ đến “thăm viếng” nội, buông lời nhớ ơn thương cảm, bà im lặng quay mặt không nhìn. Mẹ nói, “cái tôi” của nội lớn hơn cái đình làng và hơn cái chết. Đây cũng là điều hiếm hoi giống nhau của mẹ tôi và nội. Cả hai đều có cái tôi rất lớn. Nội mất, tôi đã vượt biên và định cư tại Mỹ. Mẹ tôi kể lại, nội ra đi thư thả như không còn gì bịn rịn, luyến tiếc đời nầy. Nội đã trải qua tất cả, vinh có nhục có, hạnh phước khổ đau, giàu sang hèn thấp, đều qua cả. Nội còn trối, gia đình tôi không cầm về chịu tang, thương tưởng bà là đủ.
Mẹ tôi cũng vậy, “cái tôi” của bà không nhỏ. Gia đình đói khổ, cha tôi cũng lại “vắng nhà”. Bà con, bè bạn của bà thuở xưa tìm gặp, ghé thăm muốn “ra tay” giúp đỡ. Không như nội, quay mặt không nhìn, mẹ tôi tươi cười nhưng trong lời nói rất lạnh lùng cám ơn! Đồ đạc, thực phẩm họ đem lại giúp đỡ, bà đem chia đều cho người hàng xóm! Anh em tôi tiếc của, nuốt nước miếng nhưng rất hãnh diện vì mẹ. Hai tuần trước, em rễ của tôi, bác sĩ Hòa đã qua rước bà về chửa bệnh ở Việt Nam. Hòa hiện là trưởng khoa huyết ở bệnh viện Từ Dũ. Mẹ tôi không muốn chữa bệnh và chết ở Mỹ. Mặc dù bà biết rất rõ, nền y tế ở đây rất hiện đại và tiện nghi vô cùng. Mẹ nói, bà muốn nằm bệnh và có chết cũng là người mình, tiếng nói của mình chung quanh. Chúng tôi cũng đã hết lời, hết nước mắt để cố khuyên bà ở lại. Tất cả vô ích, tôi biết “cái tôi” của mẹ lớn hơn cái chết!

Hôm nay tuyết rơi nhiều bên ngoài. Bầu trời trắng xóa và lạnh như cắt. Tôi ngồi viết những dòng chữ nầy như để nhớ về hai người phụ nữ quý báu nhất đời mình. Về hai người mẹ. Hai người mẹ của hai thế hệ, hai thời đại đã và đang thoát chốc trôi qua. Đất nước tôi, quê hương tôi như chợt xa chợt gần, chợt nhớ chợt quên, từ mọi vùng quê xa trên mặt đất. Nhưng một điều tôi biết chắc chắn, là dù ở đâu, trong bất cứ cuộc đời nào, bất cứ tâm cảnh nào, mỗi con người chúng ta đều thiết tha thương tưởng một người – người mẹ!


NNH

3 comments:

trường tôi said...

Bài viết hay lắm ! Cám ơn Thầy giáo NNH đời ngừơi ai cũng có bà Mẹ để thương để nhớ , tui rất thương Má không biết giờ nầy Bà đang ở nơi đâu ?

Ngừơi nhớ Má

Katie co5rg said...

Thầy NNH làm KT nhớ Má mình quá nè, nhớ hồi xưa nhà rất đông anh em, 11 người, chưa bao giờ KT nghe ba má cải vả to tiếng, hể các con thấy Má khóc, Ba khoát áo đi ra ngoài là biết có chuyện rồi, lát ba về là hết chuyện vui vẻ, má KT cũng nhứt quyết được chết ở VN xứ xở quê hương, muốn được nghe tiếng Việt thân thương xung quanh, Tết đến cũng là đám giổ má, đọc thấy buồn và nhớ quá.
Cám ơn bài viết của thầy nha.
KTP

Quang Minh said...

Mẹ như biển rộng bao la
Cha như núi cả cao xa nghìn trùng
Ngày đêm con mãi nhớ mong
Nghĩa cha tình mẹ trong lòng nhớ ơn